Nhái NVN

NGƯỜI HỒI CHÁNH TẠI NĂM CĂN

 

 

 

Đầu năm 1973, sau khi Cố Đại Úy NGUYỄN VĂN RẠNG và Cố Thượng Sỉ I NGUYỄN VĂN SƠN (tự Sơn xích lô) đền nợ nước tại chiến trường Năm Căn (Cà Mau), Trung Úy TRỊNH CÔNG HIỂN và tôi được lệnh công tác xuống Năm Căn để bổ xung quân số.

Đối với chàng Hải Kích th́ đến Năm Căn hay bất cứ một địa danh nào trên đất nước, nó cũng thường như ... châm một điếu thuốc. Nhưng với một số quân nhân th́ "được" đổi đến Năm Căn như một mặc căm "bị đày". Thực tế th́ chỉ một thời gian ở đây rồi lại được thuyên chuyển đến nơi khác. Lâu hay mau th́ c̣n tùy ...

Ra vào Năm Căn chỉ có hai con đường độc đạo là đường hàng không của quân đội Mỹ (nhưng xa xí và hiếm hoi) và đường thủy bằng những chuyến tàu tiếp tế của Hải Quân VN. Nhưng con đường sau này thường gặp những đón tiếp "bất ngờ" do những tổ săn tàu của VC dàn chào rất kỷ, hầu như bất cứ lúc nào. Bởi vậy ai mà chẳng biết câu:

Xa quê hương nhớ mẹ hiền,

Xa Cửa Bồ Đề nhớ B-40.

Ngoài B-40, họ c̣n dùng cả Lance Bom (cũng được gọi là B-50), gắn trên giàn phóng và thường được kích hỏa bởi 4 cục pin con mèo, mà có lần tôi đă hân hạnh tịch thu được nguyên một giàn chưa kịp bắn. Dù các Hải Vận Hạm có được đi kèm với Trợ Chiến Hạm hay Giang Pháo Hạm th́ địch vẫn cứ phục kích nhằm mục đích là để gây tiếng vang hơn là để gây tổn thất cho Hải Quân ta.

Tại đây, tôi gặp được anh Nhứt, trước kia anh hoạt động trong các tổ săn tàu của VC. Anh về hồi chánh với đơn vị Hải Quân vào năm 1970. Nhưng v́ hoàn cảnh gia đ́nh, một vợ và 8 con nhỏ, nên anh từ chối không về các Trung Tâm Chiêu Hồi để được đăi ngộ. Hơn nữa anh ở lại để giúp các Toán Seal Mỹ và Hải Kích VN trong nhiệm vụ hướng dẫn đường đi nước bước trong vùng Năm Căn. Có anh đi cùng, nhiều lần Hải Kích VN đă tránh được nhiều cạm bẫy bất ngờ và c̣n thu được kết quả rất khả quan. Có lần anh đi chung với Toán của tôi để đột kích vào vùng địch thường đặt súng cối 82 ly để đêm đêm pháo kích vào Căn Cứ và phi trường Năm Căn. Có hôm không công tác, anh t́m đến chơi với chúng tôi, tôi đă t́m dịp để hỏi anh:

- V́ sao anh ra Hồi Chánh?

- Tui phục vụ trong tổ săn tàu, đă lập được nhiều thŕnh tích và có huy chương anh dũng. Khi công tác và di chuyển bằng xuồng, tui cấm cái cây lên và treo cái huy chương lên đó, những anh em khác trông thấy đă tuyệt đối tôn trọng và dành mọi dễ dàng cho tui trong khi công tác. Thế mà khi vợ con tui lâm trọng bệnh, không ai lo lắng, thuốc men th́ không có. Tui vốn nặng nợ gia đ́nh, thương vợ thương con, nên không thể nấn ná măi được, Sau nhiều ngày đêm suy nghỉ, bệnh t́nh vợ tui càng gia tăng, có ṃi khó sống. Tui đă quyết định ra đi để t́m con đường sống. Giữa đêm khuya, tui ẳm vợ con xuống chiếc xuồng và theo lạch nhỏ âm thầm bơi thẳng ra sông Cửa Lớn. Trời hừng sáng, phía trước mũi xuồng, tui nh́n thấy một con tàu của Hải Quân đang bỏ neo giữa sông trong làn sương mù của buổi ban mai. Tui bơi vội đến con tàu như đă t́m thấy được vị cứu tinh cho vợ con tui. C̣n cách con tàu chừng 50 thước, tui nh́n thấy chữ thập màu đỏ và con số 401 trên thân tàu. Chân tay tui bỗng run lên cằm cặp, không phải v́ cái lạnh buổi sáng, mà v́ đây chính là con tàu đă bị tổ săn của tui bắn hạ cách đây không lâu tại Cửa Bồ Đề kia mà. Nhờ chiến công đó mà các anh lớn đă thưởng huy chương cho tui. Thật ra, không phải chính tận mắt tui nh́n thấy con tàu 401 bị ch́m, v́ sau khi khai hỏa chừng 15 phút, chúng tôi được lệnh phải rút lui. Sau đó, các anh lớn t́m đến gặp tui để cho biết con tàu chữ thập đỏ (tức là Hồng Thập Tự) 401 của Mỹ-Ngụy đă bị chúng tôi đánh ch́m xuống ḷng sông, giết được 100 tên lính Ngụy và 50 tên Đế Quốc Mỹ ác ôn. Anh lớn nhiệt liệt khen ngợi và ban thưởng huy chương anh dũng cho tui v́ tui là trưởng tổ săn tàu hôm đó.

Bây giờ nh́n thấy con tàu 401 sừng sững ra đó, không biết tui có nằm mơ hay không hoặc tôi bị ám ảnh có lẻ v́ có quá nhiều oan hồn bị chết uổng v́ cuộc săn tàu của chúng tôi. Tui vội khoát nước sông lên để rữa mặt v́ sợ ḿnh mê ngũ rồi trông gà quá quốc chăng. Cơn mát lạnh của nước làm tui tỉnh táo hơn, và kia đúng là con tàu 401 vẫn uy nghi nằm nổi trên mặt nước. Không nghi ngại ǵ nữa, v́ dù sao cũng đă lở, đă phóng lao th́ phải theo lao. Tui bơi xuồng riết lại con tàu, v́ đây là Y Tế Hạm, chắc chắn sẽ có đủ thuốc men để cứu sống vợ con tui. Lúc đó người lính gác tręn tàu cũng đă nh́n thấy xuồng của tui, anh ta hỏi lớn miệng:

- Xuồng ai đó, dừng lại.

Tui sợ anh ta bắn xuống, nên vội vàng la lớn:

- Việt Cộng, Chiêu Hồi!

Rồi tui buông dầm, đứng thẳng dậy, dơ hai tay lên khỏi đầu. Nghe tiếng la Việt Cộng, anh lính liền chỉa súng về phía tui và lên c̣ súng. Có lẻ anh ta sợ tui trá hàng để tiến đến gần tàu phá hoại chăng? Khi thấy tui không có ǵ khả nghi, anh ta mới ra lệnh cho tui bơi xuồng đến gần tàu hơn. Anh em Hải Quân phụ giúp đưa dùm vợ và con tui lên tàu dưới sự chứng kiến của Hạm Trưởng, lúc đó cũng đă hiện diện trên boong tàu. Tui tŕnh bày với Hạm Trưởng về hoàn cảnh khó khăn của tui, đồng thời cũng xin ông cứu giùm vợ con tui. Sau đó, ông có dẫn tui đi xem chổ mà tàu bị bắn trước kia, ông nói:

- Đây này, anh thấy không, một năm trước đây, tàu của tôi bị bắn khi vào Cửa Bồ Đề để làm công tác Dân Sự Vụ, khám bệnh và phát thuốc cho đồng bào. Vết đạn dài 2 thước này đă được hàn lại c̣n vết nứt này không ảnh hưởng ǵ mấy nên vẫn c̣n để nguyên đó.

Tui chỉ biết lặng thinh nghe những ǵ Hạm Trưởng tŕnh bày mà không dám hé môi thố lộ những ǵ sai lầm trước kia tui đă làm...

Tôi hỏi:

- Hồi trước ở trỏng anh giữ chức vụ ǵ?

- Mới đầu, khi gia nhập tui chỉ là một du kích mà thôi. Sau được đổi qua tổ săn tàu và lần lần lên đến chức Tổ Trưởng.

- Lương bỗng được lảnh như thế nào?

- Đâu có lương, cơm nhà, áo vợ, đem thân đi làm cách mạng thôi.

Trong các cuộc đột kích đêm, anh ta chỉ dùng khăn rằn để quấn cổ và đặc biệt là đi chân không. Tôi lấy làm lạ mới hỏi:

- Không có giày dép sao mà phải đi chân không?

- Ông cũng biết vùng này toàn śnh lầy, đi giày dép chỉ thêm vướng bận. Hơn nữa đi chân không cũng có cái lợi là ban đêm tránh được các cành cây khô. V́ chân không có thể biết được và tránh dẫm lên cây khô, gây tiếng động và không bị lún sâu quá khi lội śnh.

Điều này rất hữu lư, v́ chính tôi đă bị lún khoảng nửa ống quyển chân và khi cố gắng để rút chân đó lên th́ chân kia đă bị lún theo. Rút cuộc phải đành huưt gió để gọi đồng đội quay lại đưa cây để kéo lên v́ là ban đêm.

Đi ban đêm, thuốc chống muỗi được sử dụng tối đa, muỗi Năm Căn lại nổi tiếng. Hăy tưởng tượng như có ai hốt một nắm trấu mà văi vào mặt ḿnh khi đi băng qua những trũng śnh lầy, làm động ổ và muỗi túa ra bay tứ tung vào mặt vào mủi ḿnh.. Dù vậy mùi hôi của thuốc muỗi cũng chỉ xua đuổi chúng được một lát, sau đó chúng lại bu vào cắn nữa. Trong khi đó, anh Nhứt cho biết:

- Tụi tui không có thuốc chống muỗi mà cũng chẳng dám đập muỗi, v́ máu do muỗi bị giết sẽ gây mùi tanh và các con muỗi khác sẽ kéo đến nhiều hơn. Do đó mà thường th́ tụi tui dùng khăn rằn để đuổi muỗi hoặc dùng tay mà vuốt để đuổi cho muỗi bay đi...

Thời gian sau, khi đă trở lại hậu cứ ở Cát Lái, có dịp gặp lại người bạn công tác về từ Năm Căn, tôi được biết anh Nhứt đă bị những người có thời từng là đồng chí của anh, kết án và giết chết anh ở ngă ba Tam Giang, gần Cửa Bồ Đề. V́ hoàn cảnh gia đ́nh và v́ sinh kế, bất chấp lời khuyên nhủ của bạn bè, anh đă khăn gói quả mướp, đưa vợ con ra làm lưới cá để sinh sống và anh đă bị thăm sát. Định mệnh oan nghiệt đă không buông tha anh...

NN Nhựt, K.6 Seal & EOD