Nguyễn Hùng Sơn
Tranh vẽ HQ.2 của
Họa sĩ Nguyễn Hùng Sơn
Chiến hạm đang
đặt trong t́nh trạng chuẩn bị công tác. Tàu đă về neo tại Vũng Tàu được
2 ngày rồi. Cũng như thường lệ, sau
hơn 3 tháng tuần dương dài đăng đẳng,
tàu về nhận tiếp tế trong vài ngày, rồi tiếp
tục lên đường… Chúng tôi đứng
trên đài chỉ huy, dői mắt vào chiếc duyên tốc
đỉnh PCF của Hải Đội III Duyên Pḥng,
đang loay hoay cặp vào chiến hạm. Trời
tháng 10, biển có nhiều sóng, chiến hạm phải thả
thêm 2 trái độn lớn để chiếc PCF được
an toàn hơn. Từ con tàu nhỏ cḥng
chành, nghiêng ngả, các SQ, HSQ và nhân viên thuộc chi đội
đi bờ, măn phép, lần lượt trở về
chiến hạm. Trong nhóm những người
ấy, tôi thấy có 2 tân thiếu úy. Họ trong tư
thế thật nghiêm trang, đặt túi quân trang xuống
sàn tàu, đứng nghiêm, thẳng người, quay mặt về
hướng quốc kỳ phía sau lái, rố đưa tay chào thật hùng dũng, đúng quân cách. Nh́n nét mặt rạng rỡ đầy hănh diện
của họ, giấc mơ của một thời tuổi
trẻ, bất chợt bùng lên trong tôi.
Giấc mơ của tôi thật đơn
giản, “được đi biển"! H́nh ảnh của
con tàu và biển cả luôn là ước vọng trong suốt
khoảng đời mới lớn của tôi. Ngày ấy
tôi mê say đóng những con tàu nhỏ xíu bằng cây, rồi
xếp đám lính đồ chơi bằng nylon lên boong tàu.
Chúng tôi chia 2 phe, mỗi phe một chiếc tàu
và dùng dây thun bắn vào đám lính đồ chơi của
nhau. Đám lính của phe nào ngă hết
trước th́ phe ấy thua. Cuộc chơi chỉ
có chừng đó, nhưng chúng tôi chơi măi không biết
chán... Giấc mơ cứ thế lớn dần.
Xong Tú Tài II, tôi vội vă thi vào trường
Hàng Hải Phú Thọ nhưng bị loại. Mức
độ chiến tranh càng lúc càng tăng. Lệnh tổng
động vięn lại được ban hành. Tôi không c̣n một chút hy vọng nào để
bước chân vào trường Hàng Hải, đành phải
nương náu hoăn dịch ở một đại học
không thi tuyển. Mặc dù vậy, giấc
mơ con tàu và biển cả vẫn c̣n đó trong tôi.
Các chuyến xe GMC âm thầm
rời trường Bộ Binh Thủ Đức,
đưa chúng tôi về lại BTL/HQ trước khi khóa
1/70 SQTB ra trường. Không có lễ măn
khoá, không trống kèn, không đại lễ diễn hành,
không cung kiếm. Cũng chẳng có một
nghi thức gắn lon, trao bằng tốt nghiệp nào cả.
Cởi ra bộ quân phục SVSQ Bộ Binh mà
chúng tôi đă mặc trong suốt 9 tháng thụ huấn.
Khoác vào bộ quân phục Hải Quân với cặp
lon chuẩn úy mới tinh, tự gắn. Ḷng tôi nghe nhen nhuốm cay đắng. Một cảm giác khó chịu dấy lên trong ḷng.
Nỗi bùi ngùi về thân phận, về cái xuất thân kỳ
quái của ḿnh... T́nh nguyện vào khóa 20 SQHQ/Nha
Trang, bị tái khám về sức khỏe, rồi được
xếp vào tài nguyên của khoá 21. Nhưng rốt cuộc
Hải Quân lại đưa chúng tôi đi thụ huấn
K1/70 SQTB tại trường Bộ Binh Thủ Đức.
Trong hoàn cảnh phải chấp nhận và không được
giải thích này, tôi đă mang một mặc cảm bị
bỏ rơi! (Măi đến sau này, tôi tự t́m hiểu và
được biết, v́ nhu cầu khẩn cấp gia
tăng quân số, HQ không đủ cơ sở huấn luyện,
phải gởi một số tân binh và SVSQ đi thụ huấn
tại các quân trường hoặc TTHL khác, để
đáp ứng với hoàn cảnh Việt Nam Hoá chiến
tranh).
Hải
Quân Chuẩn Úy”Chiến Binh”Nguyễn Hùng Sơn.
Giang Đoàn 57 Tuần
Thám,năm 1970
Đơn vị đầu tiên của tôi là
Giang Đoàn 57 Tuần Thám, đồn trú tại Nhà Bè.
Đây là một căn cứ quân sự của Hải Quân
Hoa Kỳ, nằm trong lănh thổ Đặc Khu Rừng Sát,
thuộc tỉnh Gia Định, vùng III chiến thuật. Cấp bậc của tôi, bây giờ được
kèm thêm hai chữ "Chiến Binh". Tôi
không thích danh xưng "Chiến Binh" ấy và tự hỏi,
tại sao lại gọi là chiến binh? Để phân biệt chăng? Nhưng
phân biệt để làm ǵ?! Khi tất cả đều
cùng chung một lư tưởng phục vụ?!
Cũng may, nỗi buồn rồi qua mau khi tôi gặp lại
hai người bạn cùng khoá 1/70 đến tŕnh diện
trước đó một ngày. Không kể CHT và CHP, sĩ
quan của đơn vị gồm mười hai người.
Trong đó, có đến chín người
là"Chiến Binh", cấp bậc từ chuẩn úy
đến thiếu úy. Xuất thân các
khóa 3/69, 6/69, 1/70 TĐ. Ngoài ra, c̣n có hai
chuẩn úy Đoàn Viên và một chuẩn úy OCS. Chúng tôi
không gặp nhau thường xuyên v́ được phân tán theo các toán công tác khác nhau. Hoạt
động tuần tiểu, hành quân trong các trục và khu vực
cũng khác nhau.
Lúc ấy, đơn vị c̣n
đang trong giai đoạn cuối của chương
tŕnh huấn luyện tại chỗ (OJT). Chúng tôi thực tập
qua những chuyến công tác trên chiến đỉnh Mỹ.
tất cả đều xa lạ. Mặc dù vậy
chúng tôi cũng đă cố gắng để sớm hội
nhập vào môi trường sống mới, quen dần các
sinh hoạt, cũng như rất ngưỡng mộ tinh
thần kỷ luật, thái độ lịch sự, tôn trọng
cấp bực của mỗi một quân nhân Hoa Kỳ mà tôi
gặp gỡ.
Giang Tốc Đĩnh
PBR
Địa danh Nhà Bè, không xa lạ
ǵ đối với người dân thành phố. Nhà Bè, một quận lỵ nhỏ
gắn liền với Rừng Sát. Vùng nước lợ,
đất thấp ngập nước, śnh lầy, sông rạch
chằng chịt, rậm rạp dây leo và
cây thấp. Nhiều muỗi, rắn rết
và cá sấu. Trong quá khứ Rừng Sát
đă được biết đến qua các cuộc hành
quân tiểu trừ loạn quân B́nh Xuyên, thời Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm.
Rừng Sát. trải rộng
405 dặm vuông. Từ ranh giới Cát Lái, dọc quốc lộ
15 đi Vũng Tàu, suốt chiều dài sông Thị Vải,
ṿng qua vịnh Gành Rái, Cần Giờ, Long Thạnh, cửa
sông Đồng Tranh, rồi bọc ṿng lại Nhà Bè với
sông Soài Rạp. Đôi khi địa bàn hành quân mở rộng
đến vùng cửa sông Vàm Cỏ, lănh thổ của tỉnh
Long An và Vàm Láng thuộc tỉnh G̣ Công. Các đơn vị
đồn trú và tham chiến Việt Mỹ, gồm đủ
cả Hải Lục Không Quân. Nhưng nỗ
lực chánh vẫn là các lực lượng trấn giữ
của Đặc Khu Rừng Sát. Riêng về HQVN, ngoài
giang đoàn 57 TT, c̣n có 27 Xung Phong, 93 Trục Lôi và đôi khi
có thêm một hay hai phân đội của giang đoàn 52 TT từ
Cát Lái đến tăng cường. Đặc biệt hơn
là các đơn vị T́nh Báo, Biệt Kích, Thám Sát, Người
Nhái, vẫn thường xuyên, âm thầm hoạt động.
Những trận đánh rất
thường xảy ra, nhưng không ở mức độ
lớn. Đại
quân của CS nếu có thể, chỉ ở phía bên kia núi Thị Vải, Bà Rịa. Địa thế Rừng Sát, cây thấp, nước
ngập, sông rạch chằng chịt không phải là nơi
tập trung quân tốt. Nhưng lại
là một vị trí chiến lược quan trọng. Địa thế rất thuận lợi cho lối
đánh du kích, giao liên, nơi ẩn náu của các toán đặc
công phá hoại CS, nhằm xâm nhập, khủng bố quấy
rối
HQ Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng giang
đoàn là một người uy quyền, ông nói tiếng Anh
khá thạo nên tạo được sự kính nể của
ban cố vấn Hoa Kỳ, nhờ vậy vấn đề
tiếp liệu, sửa chữa các chiến đỉnh
được đầy đủ, chu đáo. Ở một
cấp bậc thấp, tôi thật ngưỡng mộ kiến
thức kỹ thuật, tài tháo vát điều hành của
ông. Nhưng lối đối xử đôi khi thiếu tôn
trọng nhân phẩm đối với thuộc cấp của
ông, đă làm cho tôi rất khó chịu. Có lần tôi bạo dạn,
yêu cầu ông đừng nói ĐM và mày tao với tôi v́ Hải
Quy không quy định như vậy. Thú thật khi yêu cầu
như thế th́ tôi rất lo lắng và chờ đợi
một phản ứng trừng phạt của ông. Nhưng
ông đă lắng nghe và sau gần một năm phục vụ,
ông đă đưa tôi từ vị trí một SQ trưởng
toán tuần tiểu lên trưởng khối giang đỉnh
và rồi SQ hành quân.
Trong bối cảnh chiến tranh càng lúc càng
gia tăng, phải đương đầu với vất
vả, nguy hiểm hằng ngày. Sự căng thẳng sống
chết đă biến những người lính trở
nên ĺ lợm, bướng bỉnh. Họ là những chiến
sĩ can trường, nhưng cũng là những con ngựa
bất kham! Họ cũng như chúng tôi, mang một thân phận
"bất phùng thời". Có những người là thủy
thủ tập sự hay cải tuyển đă hai, ba năm
mà chưa được đi học chuyên nghiệp. Có những
người đă tử trận mà vẫn chưa thành
thủy thủ. C̣n lại một số đă từng mặc
hai ba sắc áo lính trong chiến trận. Những ngày đầu
ra đơn vị đầy thử thách. SQ trưởng
toán không có lính cơ hữu. chỉ mang trách nhiệm điều
động 2 giang đỉnh trong một chuyến công tác
mà thôi. Người có quyền hạn trực tiếp đối
với các thủy thủ trên chiến đỉnh là HSQ thuyền
trưởng. Đó là vấn đề rất tế nhị
trong lănh vực chỉ huy. Các thuyền trưởng nhận
lệnh từ SQ trưởng toán. Nhưng thủy thủ
đoàn lại phục tùng thuyền trưởng hơn là
SQ trưởng toán. Nếu không khéo, SQ trưởng toán có
thể bị cô lập và ngược lại, nếu v́ sợ
bị cô lập, không dám chứng tỏ quyền hạn chỉ
huy của ḿnh để hoàn tất công tác, th́ vị SQ
trưởng toán ấy phải nhận trách nhiệm đối
với CHT. Khi nh́n những vết xâm, vết thẹo chằn
chịt trên ngực hay trên cánh tay của hầu hết các
thủy thủ và một vài thuyền trưởng, tôi thật
có nhiều ái ngại! Một gă học sinh, ngơ ngẩn
vào lính. Cái lon chuẩn úy trên vai quả thật nhẹ bổng,
non choẹt đối với những người lính dày
dạn chiến trận. Điều tôi lo lắng không hẳn
chỉ với quân thù mà chính là làm sao để điều
động được những người lính này. Làm
sao để khiến họ phục tùng khi giáp trận. Khó
khăn rồi cũng qua đi. Khi những chiếc huy
chương nhỏ được cài lên ngực áo, th́ cũng
chính là lúc mà tôi thông cảm và ngưỡng mộ sự hy
sinh vô cùng lớn lao, xứng đáng của những người
lính xâm ḿnh ĺ lợm ấy.
Chiếc huy hiệu tam giác nền xanh lá cây ở
giữa nổi bật h́nh chiếc giang tốc đỉnh
PBR đang cắt sóng với hàng chữ Giang Đoŕn 57
Tuần Thám. Đă bắt đầu cho tôi niềm
hănh diện khi đeo nó trên ngực áo. Hai chữ
"Chiến Binh" vẫn c̣n đó, nhưng dường
như không ai màng đến. Trước các cuộc
hŕnh quân và tuần tiểu liên miên, trước cảnh
sống chết mỗi ngày, chúng tôi chỉ c̣n rất ít thời
gian để gặp gỡ. Và t́nh chiến hữu bỗng
dưng trở nên gắn bó, sâu đậm như anh em. Cụm
từ “huynh đệ chi binh” đă không c̣n là những
khẩu hiệu, những nhắc nhớ trong âm nhạc mà
chính là tinh thần sống của chúng tôi. Một giang
đoàn tác chiến!
Cuối năm 1971, bất ngờ tôi
được thuyên chuyển về BTL/HQ/KQH lŕm Trưởng
Tiểu Ban Huấn Luyện Liên Quân thuộc Pḥng Điều
Huấn. Công việc của tôi là liên hệ, điều
hành thủ tục các khóa huấn luyện bên ngoài HQ. Đặc
biệt là lo thủ tục cho các SQHQ dự thi tuyển và
vào học tại các trường Kỹ Sư Phú Thọ.
Công việc tham mưu văn pḥng, nhàn hạ, an toàn, có thể
là một hấp dẫn của nhiều người.
Nhưng với tôi, ngày càng thêm căng thẳng, bởi có
quá nhiều đụng chạm. Tất cả những
bước cứu xét tuyển chọn khóa sinh, đều
phải dựa trên những điều kiện qui định
bởi các văn thư của BTTM hay BTL/HQ. Thế nhưng
sau khi báo cáo danh sách tuyển chọn, tôi thường xuyên
phải đương đầu với những cú gọi
đầy áp lực của một số SQ cao cấp trong
hoặc ngoài BTL/HQ, gởi gấm, nhờ giúp đỡ cho
thân nhân, đŕà em của họ, những người
không đủ điều kiện, nằm trong danh sách bị
loại. Có khi đó là những lời "Toi, Moi" lịch
sự nhả nhặn, có khi là hằn giọng hăm he. Tôi
thất vọng, chán nản, xin trở lại giang đoàn
tác chiến hay ra khỏi quân chủng. Đại Tá TMP/QH là
một cấp chỉ huy mà tôi hằng kính trọng. Ông là
người trí thức, bao dung nhân hậu. Trong tâm t́nh của
người anh, ông an ủi và khuyên nhủ tôi nhẫn nại,
chịu đựng, trở lại làm việc...
Bạn bè cho tôi là người hay lư tưởng
hóa vấn đề, thiếu thực tế ! Điều
đó đúng, tôi biết rő. Nhưng tôi không thể thoát
ra được quan niệm công bằng trong tương
quan cuộc sống. Phải chăng công bằng chỉ là
một ước vọng?! Vừa định làm
đơn xin trở lại giang đoàn tác chiến một
lần nữa, th́ được biết có khóa
1ĐB/SQHQ/NT dành cho các SQ Chiến Binh, tôi mừng quá ghi danh
ngay.
Tuần Dương
Hạm HQ2 Trần Quang Khải
Măn khóa, tôi về tuần dương hạm
HQ2 cùng với 3 người bạn. Đây là một chọn
lựa mà chúng tôi đă hảnh diện trước tràng
pháo tay của các bạn đồng khóa.
HQ2 đă biến giấc mơ “Đi Biển”
của tôi thành sự thật. Tôi thích ứng ngay đời
sống trên chiến hạm... Cho dù sóng to gió lớn, lạnh
buốt sương mù hay những ngày êm ả nắng ấm...
Biển cả luôn là một hấp lực, cuốn chặt
tôi vào những say mê riêng tư. Tôi tha thiết với những
ngày tháng trùng khơi sóng gió ấy, học hỏi rất nhiều
trên đủ mọi lănh vực. Từ chuyên môn đến
chỉ huy. Tôi trân quư các kiến thức “Đi Biển”
lượm lặt được từ những người
đi trước, bạn bè và sách vở. Sóng và gió biển
đă làm cho huy hiệu trên mũ và cặp lon trên vai của
tôi đen xanh lại. Kinh nghiệm biển cả cũng nhờ
đó lớn dần. Tôi ḍ dẫm từ một SQ trưởng
khẩu đại bác 127 ly, SQ hải pháo, cho đến
Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Chiến Báo, rồi Trưởng
Khối Hành Quân. Có lẽ v́ đi biển là sở thích,
nhưng cũng có lẽ từ một mặc cảm sâu thẳm
nào đó của quá khứ, tôi luôn luôn buộc ḿnh phải cố
gắng. Tôi muốn thử nghiệm khả năng của
một gă mang thân phận "Lưu Đày".
Khác xa với không khí cởi mở, gần gũi
"huynh đệ chi binh” như ở giang đoàn tác chiến,
đời sống trên chiến hạm thật quy cũ,
nguyên tắc và kỷ luật. Truyền thống ấy dựa
trên quyền lực của Hạm Trưởng và các sĩ
quan chỉ huy. Một kỷ cương có lẽ đă lâu
đời trong lịch sử hàng hải Tây Phương, của
những thời thuyền buồm. Mang dáng vẻ phong kiến
mà ở đó SQHQ là giai cấp chỉ huy hoàng tộc và thủy
thủ là giai cấp phục tùng b́nh dân. Trong khuôn khổ kỷ
luật như vậy, quả thật đă trấn áp
được nhiều cuộc nổi loạn của thủy
thủ trong quá khứ. Đă chứng tỏ được
sức mạnh của phục tùng tuyệt đối trong
các cuộc hải chiến giữa các hạm đội
hay với hải tặc xưa kia. Nhưng xem ra, nguyên tắc
lảnh đạo như thế quá khô khan, g̣ bó! Cả 4 gă
"Lưu Đày" chúng tôi đều phải cố gắng
g̣ ḿnh trong cái khuôn khổ mới. Tuy vậy, đối với
các SQHQ (truyền thống) dường như đó là
điều tự nhiên.
“Lưu Đày” không có thói quen ấy, không
đặt nặng ranh giới giữa SQ,HSQ và Đoàn Viên.
Sự hoà ḿnh trong quan niệm chỉ huy có lúc trở nên một
vấn đề bị chỉ trích trên chiến hạm. Có
lần tôi bị Hạm Trưởng than phiền rằng:
"Anh làm đục nước Hải Quân” khi ông thấy
tôi có mặt trong một quán nhậu chung với các thủy
thủ. Hạm Trưởng rất đúng trong
phương cách tạo sự cách biệt, dùng uy quyền
để chỉ huy. Nhưng chúng tôi không được huấn
luyện như vậy. Trường Bộ Binh dạy chúng
tôi lối chỉ huy của một SQ Bộ Binh, biết vận
dụng sức lực của con người qua tâm lư
“đồng tâm cộng khổ”, “huynh đệ chi binh”, cái
nh́n chỉ huy mang tính cách liên đới "t́nh cảm"
trong đó có trách nhiệm của người anh và bổn
phận của đàn em. Cái nh́n gắn chặt "đội
h́nh", nghĩa là toàn đội và đồng bộ. Bởi
v́ rất dễ hiểu, khung cảnh sống của binh sĩ
Bộ Binh không bị cô lập như các thủy thủ
trên một con tàu giữa đại dương. Vă lại,
"uy quyền" của một trung đội trưởng
Bộ Binh tác chiến không đủ để áp lực,
buộc các thuộc cấp xung phong thí thân xuyên thủng
pḥng tuyến địch nếu không có sự liên hệ
t́nh cảm trước khi tuân phục. Muốn vậy,
người SQ vừa là cấp chỉ huy nêu gương dũng
cảm lại phải vừa là người anh được
sự thương mến, gần gũi của đàn em.
Thời gian trước Hiệp Định
Vào năm 1972. Một phái đoàn "Nghiên Cứu
Phân Chim" của Bộ Quốc Pḥng (?) gởi tháp tùng chiến
hạm ra đảo Hoàng Sa. Trong buổi chiều, trước
giờ hoàng hôn, biển bắt đầu động nhẹ,
chúng tôi vài người c̣n nán lại ở sân mũi, chuyện
tṛ. Bất ngờ, một vị Trung Tá Pḥng 7 TTM thuộc
phái đoàn, bước ra và nhập bọn với chúng tôi.
Trong câu chuyện vui vẻ, ông nói : "HQ mấy anh sướng
quá! Ăn cơm ngồi bàn, muỗng nỉa. Ngủ giường
nệm trắng, tắm nước nóng. Chẳng bù với
chúng tôi, muỗi ṃng, vắt đỉa, śnh lầy, gạo
sấy, mưa nắng vất vả"! Đang nói, bất
ngờ ông lợm giọng, ói một ngụm xuống biển
(cho cá ăn!). Chúng tôi biết ngay là ông đang say sóng,
nhưng không ai nói ra, chỉ đề nghị ông vào pḥng
nghỉ ngơi. Ông không chịu! Cho đến ngụm thứ
3 th́ ông từ giả, "Có lẽ tôi bị trúng gió. Thôi
chào các anh em nhé!". Dáng ông nghiêng ngả theo nhịp lắc
của con tàu . Chúng tôi nh́n theo cùng cười và thông cảm.
Những ngày sau đó, chúng tôi không hề thấy ông, kể
cả giờ cơm ở pḥng ăn SQ. Thời gian công tác
rồi cũng qua, tàu về neo ở cửa Tiên Sa Đà Nẳng.
Chúng tôi tiển đưa phái đoàn qua PCF để vào bờ.
Vị Trung Tá P7/TTM hôm ấy, đă đến bắt tay
tôi, nụ cười thật tươi như sắp
thoát khỏi một hoạn nạn. Ông nói, “Tôi nghĩ
đi lính Bộ Binh sướng hơn!”.
Huy hiệu HQ 2
Đời lính thủy đâu có
phải chỉ đương đầu với sóng gió. Phía sau giấc mộng hải
hồ là cả một thử thách, những khứng chịu
của sự cô đơn, của tách rời, của thèm
khát mà một người trong đời sống b́nh
thường không thể nào có thể cảm nhận và
thông cảm được. Tôi chợt nhớ đă
đọc được trên lưng chiếc Jacket của
một anh Hạ Sĩ Giám Lộ, "HQ2 cù lao sắt",
hoặc là hàng chữ xâm trên tay của một chàng Thủy
Thủ Vận Chuyển, "Xa quê hương nhớ mẹ
hiền" . Hay những ḍng chữ nguệch ngoạc
"Ôi biển cả bây giờ ta mới biết. Mộng
hải hồ giết chết cuộc đời ta!” trên một
giường bố nào đó, trong pḥng ngủ đoàn viên.
Tôi hiểu rất rơ sự khứng chịu ấy và ḥa nhập
hoàn toàn vào những cảm xúc thiếu vắng của họ.
Đời thủy thủ là như thế đó. Nhưng bổn
phận, trách nhiệm và kỷ luật đă gắn chặt
tất cả chúng tôi với biển cả bằng một
sức chịu đựng chân thành.
Về Sài G̣n. Quả như cánh cửa thiên
đàng mở rộng, ḷng chúng tôi hân hoan vô kể. Những
bộ tiểu lễ được đem ra mặc và nhiệm
sở dàn chào thật nghiêm trang, đầy hănh diện. Lâu
lắm, chúng tôi mới được trở lại thủ
đô mến yêu. Tàu có 3 chi đội, nhưng đâu phải
được đi bờ 100%. Chúng tôi luân phiên, một chi
đội rời tàu đi bờ. c̣n lại 2 chi đội,
ứng trực và trực phải có mặt trên tàu 24/24. Một
lần tàu về Sài G̣n. Gặp lúc chi đội của tôi
trực, nhưng anh em vẫn vui vẻ, náo nức chờ
xuống phiên rồi sẽ đi bờ ngày hôm sau. Bất
ngờ được lệnh nhận tiếp tế đạn
tại chỗ và ra khơi công tác vào ngày mai. Lúc ấy vào buổi
trưa, trời nóng bức. Tôi phải điều động
cả 2 chi đội c̣n lại khoảng 20 người
để chuyển 2000 viên đạn đại bác 127 ly từ
một chiếc LCU cặp ở vị trí kế bên vào hầm
đạn của chiến hạm. Lệnh công tác ban ra,
chúng tôi như tiêu tan hết năng lực làm việc. Sau
hơn 6 tháng xa gia đ́nh, anh em ai cũng muốn về nhà.
Ước mong tàu sẽ nghỉ được vài ngày. Nào
ngờ chỉ mới một ngày, lại có lệnh đi!
V́ sự an toàn, đạn 127 ly có 2 phần
rời, đầu và thân đạn. 2000 viên đạn có
nghĩa là 4000 lần chuyển đạn chia đều
cho 20 người hôm đó. Trong trách nhiệm một SQ trực,
tôi hiểu ngay sự khó khăn sẽ phải
đương đầu đối với một
hoŕn cảnh tâm lư không thuận lợi như vậy. Tôi
quyết định cởi áo, cùng với anh em ra khiêng
đạn. Sau cùng chúng tôi hoàn tất trong hạn định.
Tôi mệt lă, mồ hôi như tắm, mặt mày lem luốc,
bước vào pḥng ăn SQ để uống nước.
Hạm Phó đă về chiến hạm từ năy giờ.
Ông có mặt trong pḥng ăn SQ lúc ấy. Thấy tôi, nét mặt
ông bỗng trở nên hầm hầm, ông quát lớn
:"ĐM, anh không biết chỉ huy! Không có tác phong. Anh bảo
tụi nó làm chứ anh không phải làm! Thằng nào cải
lệnh th́ đá đít nó. Anh hiểu chưa?” Câu quát tháo ấy
làm cơn giận của tôi suưt nổ bùng! Tôi hiểu tôi
đă phạm qui định, vào pḥng ăn SQ mà không
ăn mặc chỉnh tề. Nhưng tôi lại nghĩ,
đây là trường hợp bất khả kháng. Tôi cố
gắng tŕnh bày,"thưa HP, tôi đă hoàn tất nhiệm
vụ được giao phó."
Theo tôi, một người chỉ huy phải
biết ước đoán, tiên liệu. Tùy theo hoàn cảnh,
năng lực của thuộc cấp để đạt
được mục đích là thi hành và hoàn tất lệnh
của thượng cấp. Việc dùng uy quyền, la hét,
đá đít thuộc cấp. Không nhất thiết và không
phải là một cung cách chỉ huy hữu hiệu. Hai cái
máy, nếu mở cùng một tần số th́ nó sẽ hát
như nhau. Nhưng nếu là 2 con người th́ không thể
áp dụng một "công thức" đối
đăi như nhau được. Hơn thế nữa,
buổi sáng sẽ khác buổi trưa. Chuyển đạn
rồi được đi bờ sẽ khác với phải
ra khơi... Người lính cũng là con người, và tôi
cũng thế. Tôi nghĩ nhiều về thân phận của
chính tôi, của những bạn bè đồng cảnh ngộ,
của nhân viên thuộc cấp, lư tưởng và mục
đích của cuộc chiến. Một ư niệm về trách
nhiệm phục vụ rộng mở, không c̣n bị
đóng khung hạn hẹp ở màu cờ sắc áo nữa.
Trong cái nh́n xa hơn. Tôi t́m thấy được niềm
tự hào góp phần phục vụ quê hương dân tộc.
Sân mũi báo cáo, neo đă về lại vị
trí. Nhiệm sở kéo neo được giải tán. Chúng
tôi vào nhiệm sở hải hành... Chiếm hạm rẻ
sóng ra khơi. Qua làn khói đen từ ống khói, thành phố
Vũng Tàu mờ dần ở phía sau. Một cảm giác bồi
hồi lại dâng lên trong ḷng. "Ra khơi", từ ngữ
thật lăng mạn, cái lăng mạn đầy ắp tính chất
văn chương thơ phú! Ra khơi với đại
dương mênh mông, với hoa biển, mỹ nhân ngư và
ngàn sao lấp lánh... Tất cả đă một thời gợi
trong tôi thật nhiều mơ tưởng. Giấc chiêm bao
của tôi về con tàu và biển cả lớn lắm! Lớn
như một ước vọng được tung hoành...
Tôi bất chợt cảm thấy buồn cười và thương
hại cho chính ḿnh. Thực tế đă đập vỡ tất
cả những giấc mơ bay bổng của tôi. Cuộc
dấn thân thật sự, không giống như 2 tân thiếu
úy vừa đến chiến hạm. Cái xuất thân phức
tạp, đă làm mất đi niềm tự hào trong
tôi. Bước đầu quân ngũ, đầy nặng nề,
choáng váng trước những cú thôi sơn thực tế.
Giấc mơ biển cả như tan tành! Tôi đă có ư
định ra khỏi Hải Quân. Nhưng rồi cũng
chính trong trạng huống đổ vỡ ấy, tôi nhận
ra được cái giá trị và ư nghĩa của quan niệm
phục vụ. Con người, một cách rất tự
nhięn, luôn mong muốn, cố gắng t́m kiếm cho ḿnh một
chỗ đứng để được ngưỡng
mộ. Muốn thế, thành tích, phong cách và tên tuổi phải
được đánh bóng. Để rồi từ đó,
xuất thân và truyền thống được đề
cao. Thật ra niềm tự hào, tự nó, mang một ư nghĩa
tốt đẹp qua việc phục vụ chung. Tuy nhiên,
trong một vài trường hợp nào đó, niềm tự
hào rất có thể trở thành nguyên nhân của nhiều mặc
cảm. Gây nên sự so sánh, mất đoàn kết.
Đi biển, một giấc mơ. Hải
Quân, niềm hănh diện phục vụ. Lưu Đày một
thân phận bẽ bàng! Tôi muốn thả lỏng tâm hồn.
Tất cả chỉ c̣n là dấu vết của một
đời người. Cho đến bây giờ. Sau hơn
30 năm, cuộc chiến đă chấm dứt. Bao
nhiêu bạn bè đă ra đi? Bao nhiêu người là "Chiến
Binh", bao nhiêu người là "HQ Lưu Đày", bao
nhiêu người là "HQ Truyền Thống NhaTrang" ,
bao nhiêu người là "HQ OCS Hoa Kỳ" hay Úc Đại
Lợi ?! Họ đă tự hào, đă xông pha chiến
đấu và đă hy sinh. Trong cuộc chiến ấy,
đạn quân thù nào có phân biệt được ai?!... Tôi
nghĩ về những vị CHT hay HT đầy uy quyền,
và thông cảm được sự cô đơn của họ.
Những vách ngăn, rào cản do quyền bính, chức vụ
tạo thành, chắc hẳn đă làm cho họ nhiều
trăn trở. Tôi nghĩ về những SQ, những con
người nhiệt huyết, hăng say đă chôn vùi
tuổi trẻ của họ cho lư tưởng tự do. Và
tôi cũng nghĩ về những người lính, những
anh em, bạn bè của tôi. Những người đích thực
xả thân! Xả thân và xả thân... Một khối
thương yêu chợt ập đến, đè nặng tâm
hồn.
Tôi ngồi đây trong h́nh hài một người
đàn ông 60. Trang sử đă lật qua. Tuồng hát
đă hạ màn. Tôi rời sân khấu. Nhưng những
dư âm dường như c̣n đâu đó. Như một
hoàng hôn hạ kỳ năm nào tręn biển cả, tôi thấy
tôi, các bạn tôi, cả thủy thủ đoàn và con tàu
đang xẩm dần trong màn đêm. Khi đèn hải hành
được thắp lên, sau lái chiến hạm, màu trắng
xóa của bọt biển chợt lấp lánh một thứ
ánh sáng lân tinh. Ánh sáng ấy kéo dài, xa dần, tan dần,
đưa tôi vào ḍng kư ức. Bắt đầu lại một
giấc mơ biển cả, tôi ngồi đóng những
con tàu gỗ nhỏ, những sợi thun được bắn
thật chính xác vào đám lính đồ chơi của phe
bên kia. Giấc mơ tuổi trẻ bay bổng thật xa,
không ranh giới và phân biệt.
LĐ.
Nguyễn Hùng Sơn
K1/70SQTB,
K1ĐB/SQHQ/NT, K1TMTC/HQ