Giang Hữu
Tuyên
Niệm Kỷ Với Lưu Đày
Nhân ngày họp mặt các khóa Lưu Đày Kỳ
8 tại
" . .
.nắng mưa miền cố thổ
Phong
sương mấy độ qua đường phố
Hạt
bụi nghiêng mình nhớ đất quê. .
."
( Sơn
Hạt bụi còn
nghiêng mình nhớ đất quê hương huống hồ
gì là chúng ta , những ngừơi thanh
niên một thời cùng nhau " ôm mộng hải hồ"
(nói theo cách nói của phe ta Lưu Đày).Ở sông thì nhớ
biển. Ở biển thì nhớ sông.
Đi giang đòan thì mong về căn cứ. Ở căn cứ
thì muốn ra khơi.“ Mộng hải hồ
“ của các bạn không biết
được bắt đầu như thế nào. Với tôi, nó bắt đầu bằng ấn
tượng một cơn mưa. Mưa
không phải là mưa từ trời. Mưa
không biết đă đổ nước từ lúc nào.
Chỉ biết là từ khi tôi đến
đó thì rì rào, rì rào mưa mãi. Và cho đến
hôm nay, thực sự cơn mưa đă chấm dứt
chưa? Tôi không rő lắm. Lúc tôi
rời nơi đó, vẫn còn mưa. .
.
Đó là cơn
mưa ở Bạch Đằng II, năm 1969. Những ngày đầu đoạn đời làm
lính, tôi đụng phải cơn mưa tha thiết như
vậy. Mưa làm tôi không sao ngủ
được. Ngó qua thấy có Trần Ngọc Châu lầu
bầu trên giường đá, có Lương Trung Minh, có
Nguyễn Gia Trọng nằm im lặng nghe mưa. Chỉ có Trần văn Công thì ngủ mê như chết,
thỉnh thoảng miệng còn lảm nhảm nghe không rõ,
hình như đang nói một mình với quản nội
trưởng Thinh.
Anh em chúng tôi ngày
đó - những người anh em mà ngày hôm nay, sau cơn bão
dữ, tôi may mắn còn thấy nơi
đây có sự hiện diện của rất nhiều, là
tài nguyên của khóa 21 Sĩ Quan Hải Quân. Sau một thời
gian tập đi đếm nhịp ở dọc bờ
sông Sài Gòn, các đại đội khóa sinh này hợp cùng
đại đội khóa sinh khác đến từ Cần
Thơ, từ Đà Nẵng,. . . đă bị chia ra gởi
đi thụ huấn ở nhiều nơi khác nhau.
Có lẽ đây là
“cái mầm” để sau naỳ nẩy nở thành lối
xưng hô vừa ta thán vừa kiêu hãnh: Sĩ Quan Hải Quân
thuộc các khóa Lưu Đày. Lối xưng gọi mà ngày
nay đã trở thành lối xưng gọi đáng yêu của
kỷ niệm .
Sau giai đoạn I ở
Quang Trung, một số trở về Sài Gòn để theo học Anh ngữ chờ ngày đi OCS, Hoa
Kỳ, một số lên Thủ Đức, và một số
ra Nha Trang. Rủi cho tôi, lúc đó mà là may cho tôi sau này. Lúc ở
Quang Trung, tất cả khóa sinh được Bộ Tư
Lệnh đem GMC chở về một địa điểm
gần nhà thờ Đức Bà để trắc nghiệm
ABC Anh ngữ thì tôi nằm liệt ở bệnh xá Khi hết
bịnh trở về, tôi có khiếu nại để
được dự thi. Nhưng, hình như
đơn khiếu nại đó không được chuyển
tới nơi nhận.
Thế là cùng với
Võ Trường Xuân, Lê Tiết Minh, Lương Trung Minh. . .ba lô lên vai, trực chỉ vũ
đình trường
Vào một
buổi trưa nắng gắt. Tôi còn nhớ như in, buổi trưa
hôm đó, sau 3 vòng, người tôi ngã xuống như một
cây chuối. Bạn tôi Lương Trung Minh đỡ dậy. . . Vậy mà tôi cũng qua được
giai đoạn huấn nhục, và cũng ra trường
, dù với hạng rất thấp.
Trong thời
gian thụ huấn, quân trường đă xăy ra một
biến cố rất lớn.
Đó là địch quân gài mìn ở cầu Bến Nọc
vào ngày 19 / 1 / 1970 , khiến đại
độ 42 khóa 6 / 69 , bị thiệt hại nhân mạng
và gây thương tích cho nhiều Sinh Viên Sĩ Quan, trong
đó có SVSQ/ HQ, đang có mặt tại hội trường
ngày hôm nay, đó là Lưu Đày Trần văn Hữu,
đến từ California. Lưu Đày Hữu sau nhiều
ngày điều trị ở bệnh viện Hải Quân , và được giải ngũ sau
đó 2 năm.
Hiện
diện trong buổi Lưu Đày Hội Ngộ, đêm
nay, tôi cũng ghi nhận nhiều khuôn mặt từng một
thời huynh trưởng hắc ám và không hắc ám của
chúng tôi thuộc khóa 6 / 69.
Mười
mấy anh em chúng tôi quá giang LST để trình diện tân
đáo Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Duyên Hải là HQ Đại
Tá Đỗ Kiễm. Muời
mấy anh em Lưu Đày, đó là Phạm Quốc Nam,
Lương Trung Minh, Trần Hưũ Hoàng , Ngô Hưũ
Tân, Tôn Cẩm Hấu, Quách An Ninh, Phạm Văn Ngâu, Nghi
Tích Sơn . . và tôi. Cá nhân tôi, Phạm quốc
"
Ôbi gió lạnh không tình sưởi
Rượu uống
mềm môi vẫn thấy buồn
Duyên đoàn 41 ngoài
nhiệm vụ trấn nhậm đất đảo cực
nam của Tổ Quốc, ngoài nhiệm vụ tuần duyên
từ muĩ Bãi Bùng , Cà Mâu đến hòn Đá Bạc Sông
Ông Đốc còn biệt phái đi hai thành phần, một
vô Năm Căn, Cà Mâu, một qua Hà Tiên Rạch Giá.
Tại Hà Tiên tôi
đoàn tụ với Lương Trung Minh, nhiệm vụ của
toán biệt phái này là ngày đêm đi tuần trên sông Giang
Thành, con sông chia cách biên giới hai bờ Miên Việt, con
sông nối dài cửa biển Hà Tiên và kinh Vĩnh Tế, con
sông chảy qua các xã ấp, Trà Phô, Đầm Trích,Vĩnh Gia, Giang Thành.
Người
ta thường nói ở miệt Cà Mâu" muỗi kêu
như sáo thổi". Điều đó tôi nghĩ không đúng. Phải
sống ở vùng tuần tiểu của chúng tôi bắt
đầu từ Trà Phô đến Giang Thành mới biết thế nào là " muỗi kêu
như sáo thổi". Mùng màn, thuốc xịt
nhằm nhò gì. Đời lính thuỷ tàu cây của
chúng tôi, nói ra xin bỏ lỗi là thường hay ngồi ở
be tàu để “ đại tiện”(poopoo/
number 2) ăn cơm sấy ỉa be ghe là như thế. Mỗi
lần như vậy là mỗi lần” đau khổ “ lắm. Chúng tôi ý thức rất rő sức
mạnh kinh hồn của bầy muỗi đói, vuốt
tay một cái là máu đỏ lòm pha với xác muỗi
đen thui ! .
Những chuyến tuần
giang như thế cũng đều trườn mình theo ngày tháng, theo cường độ gia
tăng của cuộc chiến.
Do đồng
lương ít ỏi và cố định, anh em Duyên Đoàn
của chúng tôi sống rất kham khổ. Nhưng
kể từ ngày phát giác ra "vựa cá tôm" trầm thuỷ
thì đời sống vật chất của anh em chúng tôi bớt
phần cơ cực, có phần huy hoàng nữa là khác.
Biên giới Miên Việt gần như là vùng cấm,
vùng hoang vu. Biên giới Miên Việt ở
bờ bắc còn là vùng hoạt động của đảng
khăn trắng Sơn Ngọc Thành. Vì nhiều lý do
khác nhau, đảng naỳ đă phải chạm súng với
nhiều lực lượng khác nhau, như Khờ Me Đỏ,
như Lon Nol, như bộ đội Cộng Sản Bắc
Việt. . .nên xương cốt vô chủ nằm rãi rác khắp
nơi dưới những mương nước hay bờ
bụi. Vùng đất không người lai
vãng, hoang loạn, nên cá tôm nhiều vô số kể. Một
buổi trưa nóng nực, một đoàn viên nhảy xuống
tắm mới biết rằng ở dưới những gốc
cây già ngâm mình dưới nước là" thị trấn
đô hội, phồn hoa" của những chú tôm càng to
tướng, râu dài. . .Tôi có một đôi lần nhảy xuống
sông Giang Thành, nhưng không bao giờ đâm được
một con tôm. Bởi vì rất đơn giản là tôi không
biết là tôm luôn búng ngược. Ngang như
cua, ngược như tôm là vậy.
Từ
ngày ấy, những bửa cơm chúng tôi trở nên xôm tụ. Khi thì gỏi tôm càng nướng, khi thì cá
bông chưng tương, khi thì cá/ tôm kho lạc với rau mò
ôm. . .
Tôi còn nhớ rõ lắm , đó là một bữa cơm chia
tay. Tôi trở về đơn vị gốc, bàn giao trách
nhiệm lại cho thiếu uý Bình. Thiếu uý
Đặng Văn Bình, gương mặt xương
xương, nước da rám nắng, giọng nói trầm,
giáng người kiêu bạt. Bình là học
sinh bảnh trai của trường trung học Mạc
Đỉnh Chi ở Sài Gòn ngày trước. Bình xuống Duyên Đoàn 41, sau tôi hơn nửa
năm. Bình đến đâu thì có những
tiếng cười khúc khích của các cô đến đấy
(như trường hợp của Lưu Đày Thiều
Quang Tài của chúng ta vậy). Tôi có cãm tình với Bình
ngày gặp nhau lần đầu tiên ở quán " Thuyền ra cửa biển " ở Rạch
Giá.
Bữa cơm chia tay đó được diễn ra trên ghe chủ
lực và do chính tayT/S CK Tuyền làm đầu bếp. Món
chính của hôm đó dĩ nhiên là món gỏi củ cải
tôm càng nướng và có rắc thêm nhiều đậu phộng
rang đâm nhỏ. Trừ đậu phộng là phải mua,
còn các phần còn lại như tôm càng là sản phẫm của"
lờ lộp đơn vị”như củ cải là
"thành tích chôm chỉa " cườn củ cải"
cường hào ác bá".
Tiệc chia tay bắt đầu vào khoảng 4 giờ
chiều, 4 giờ chiều của một ngày Hà Tiên nhạt
nắng. Ở vùng công tác, chúng tôi có thói quen ăn cơm chiều
sớm để còn lo liệu cho những bất trắc
có thể xăy đến vào buổi tối
. Tôi nhờ H/S Phương lên căn cứ tìm thiếu
uý Minh. Một lúc sau Minh xuóng bến và cũng không quên mang
theo 2 chai Vĩnh Sanh Hòa( không được
XO như tối hôm qua). Buổi chiều xuống
dần trên cửa sông. Hai con chim thuyền chài đậu
trên mấy cành cây khẳng khiu ở phía xa xa. Hình như
chúng mãi mê soi nước, thỉnh thoảng lơ đễnh
nhìn về núi Tô Châu mà không hề ngó ngàng gì đến anh em
chúng tôi với bữa tiệc chia tay thời
chiến.
Nói theo
ngôn ngữ địa phương, sau khi ních no nê một bụng,
và sau một vòng rượu T/S Tuyền và H/S Phương
xin phép rút lui. Còn lại ba anh em chúng tôi, Minh rót
thêm rượu mờ Bình. Phần tôi, ly vẫn đầy
vì cứ vẫn vơ hoài với nổi
buồn của con chim thằng chài. Cái nổ buồn lan man, và không hiểu cảm khái như thế
nào mà tôi lại bật lên một đoạn thơ của
Trần Huyền Trân:
" . . .con chim boí cá già rồi
Mõ dài đã nhặt
hết lời thơ xanh
Còn gì nửa ở
lều tranh
Ở lòng em, ở
lòng anh còn gì ? "
Dĩ
nhiên nguyên bản thơ TRẦN Huyền Trân không là như
thế. Tôi thầm vui với
hình ảnh con chim thằng chài vẫn còn đang đậu
chổ cũ. . .
Nói tới thơ tôi
thấy mắt Bình chợt sáng lên rồi buồn hẳn lại.
Bình nâng ly lên rồ rủ Minh cùng uống cạn " Thiếu uý rót tiếp cho tôi nữa
đi, tôi về Yabuta một chút rồi trở lại liền
hà " Tôi và Minh theo đuổi ý nghĩ riêng tư của
mỗi người, lúc trở lại tôi thấy trên tay
Bình có một phong thư
Thì ra là phong thư của cô Hương, người bạn
gái của Bình. Có lẽ từ phút này Bình có vẻ đã ngà
ngà say, Bình cướp diễn đàn và
nói huyên thuyên như người lên cơn đồng thiếp.
Minh cười cười nhìn bạn. Tôi thấy Bình bắt đầu đứng dậy
và ngó ra sông. Trời đă chập choạng
tối. Ánh đèn vàng vọt hắt xuống
mặt sông. Tiến sát gần cột đèn, Bình dừng
lại như một nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu
rồi cất tiếng ngâm:
" Em mơ màng trong lịch sử xa xăm
Có nàng Tô Thị trông
chồng hoá đá
Em nghĩ
Thịt xương
con người sẽ bị thời gian tàn phá
Nhưng rõ ràng là
Em đang nghe tiếng
gọi từ Đồng Đăng
Hay là anh đã mệnh
hệ nào chăng?
Anh ơi!
Mộng ra khơi
Mộng viễn
dương
Vẫn còn nguyên vẹn
đó
Sao nghìn trùng
đă tống biệt nhau
Tối nay em sẽ
thăp nhang trên bàn thờ mẹ
Cho mẹ phù hộ
cho hai đứa vưọt hết thương đau
Tối nay em sẽ
thắp nhang trên bàn thờ mẹ
Xin me phù hộ cho hai
đứa mãi mãi vì nhau
Giọng Bình khàn
đục,buồn bả. Tôn trọng nỗi
buồn của Bình tôi và Minh lặng lẽ đi vào căn
cứ.
Như say mê sân khấu,
Bình ngâm đi ngâm lại đoạn thơ trên.
Giọng Bình nhỏ
dần theo bước chân tôi . . .
Hay là anh đã mệnh
hệ nào chăng?
Anh ơi!
Mộng ra khơi
Mộng viễn
duyên
Vẫn còn nguyên vẹn
đó
Sao nghìn trùng đã
tống biệt nhau
Bữa rượu
con con đó, vậy mà đă ba mươi mấy
năm. Từ ngày đó đến nay tôi không
còn cơ hội gặp lại hai người bạn Đặng
Văn Bình và Lương Trung Minh nữa.
Tôi cũng không ngờ,
bửa rượu chia tay đó lại
là lần cuối cùng của tôi và Bình. Tin Bình đã vĩnh
viễn ngã gục trên kinh Bà Bèo đến với tôi khi tôi
làm việc Trung Tâm Tiếp Liệu Hải Quân Saì Gòn chung với
Trần Văn Công , Nguyễn Đức Phổ, với Huỳnh
Phú Măi. . .Có lần tôi qua cầu Chà Và, qua Tân Qui Đông
để tìm “ tung tích” Đặng Văn Bình. Chị của
Bình sầu héo đứng nhìn theo tôi-
người bạn củ đứa em trai mình- khi tôi từ
giã ra về. Ánh mắt trên khung ảnh ở bàn thờ Bình,
tôi gần như mang theo. Trong
lần đó tôi không biết gì thêm về thân thế của
cô Hương.
Bình và
Hương.
Xin lỗi
các bạn, tôi đă vô tình tiết lộ những riêng
tư, mà đáng lẽ tôi không có quyền làm như thế. Nhưng, xin hai bạn hiểu cho, đã từ
lâu đối với cá nhân tôi, đối với anh em
Lưu Đày , hình ảnh của hai bạn
không còn là riêng tư nữa. Đó là tình riêng trong nghĩa chung. Đó là biểu tượng của sự
đóng góp của gia đình Lưu Đày vào việc bảo
vệ Đất Tổ , Quê
Hương.
Nói tới
Đất Tổ, Quê Hương, tôi lại phải một
lần nữa xin lỗi. Sau
ngày Bình ra đi rồi, chúng tôi- các anh em còn lại của
Bình- đã không bảo vệ nổi sông Giang Thành, đã
không bảo vệ nổi Hoàng Sa, Trường Sa, đã
không bảo vệ nổi Miền Nam, để đến
nổi anh em ngày nay phải thất tán, đă lưu lạc,
để đến nổi ngày nay bất lực nhìn kẻ
thù đem đất đai biển cả gấm vóc dâng hiến
cho “thiên triều" .
Bình ơi, đau
đớn hơn cho bạn là phần đất Đồng
Đăng- nơi có huyền thoại nàng Tô Thị trông chồng
hoá đá, nơi mà cô Hương, người bạn tình của
bạn đă cảm nhận tiếng gọi khe khắc
của định mệnh- đă thuộc Tàu. Phần đất thân yêu đó đă tạm
thời không cňn là phần đất của Tổ Quốc
Việt
Tôi dùng
chữ tạm thời. Tôi nghĩ,
nếu hồn bạn linh thiêng, xin hãy phù hộ cho thế hệ
Lưu đày, cho con cháu của toàn thể người Việt
yêu chuộng Tự Do, Dân Chủ kiên quyết theo đuổi
cho bằng được nổ lực đòi lại vùng
đất , vùng trời, vùng biển đă mất vì sự
khiếp nhược của tập đoàn thống trị
ngày nay.
Kính thưa tất cả
các anh em Lưu Đày
"
Chúng ta mất hết, chỉ
còn nhau" , thơ Vũ Hoàng Chương. Vâng, thực sự
chúng ta đã thực sự gần như mất , hết,
chỉ còn nhau.
Hôm nay đây, xin chúng
ta hăy biến cái "chỉ còn nhau đó "
trở thành một " nhân tố giá trị vĩnh cữu
". Để gia đình Lưu Đày của chúng ta
măi mãi có nhau và mãi mãi vì nhau. . .
Và sau
cùng tôi xin đưa ra một đề nghị và một
câu hỏi, rất thường nhưng rất thật.
Đề nghị: Nếu
trong danh sách 33 anh em Lưu Đày đă nằm xuống
không có tên của Bình, thì xin hãy liệt kê thêm người thứ
34. Đó là Hải Quân Thiếu úy Đặng
Văn Bình. Bình đă gục ngã khi mộng
ước làm thuyền trưởng viễn dương
chưa thành. Anh đã ra đi giữa
sông ngòi Đồng Tháp như biết bao nhiêu anh em Lưu
Đày của chúng tôi.
Câu hỏi: Tất cả
anh em Lưu Đày có ai biết được người
bạn Lương Trung Minh của tôi bây giờ đang ở
đâu không? Sống lưu vong trên chính đất nước
mình hay lưu vong ở một nơi nào đó. Đă
hơn 30 năm qua, tôi không biết được tin tức
gì của Minh, ngoại trừ những giòng chữ: Hải
Quân Trung Uý Lương Trung Minh, tốt nghiệp thủ khoa
khoá III Si Quan Hải Quân Đặc Biệt.
Thành thật cảm
ơn
Và trân trọng kính
chào
Giang Hữu Tuyên